Trong thời kỳ tiền khởi nghĩa tháng 8
–1945, phong trào học sinh sinh viên yêu nước rầm rộ từ Bắc chí Nam,
Huỳnh Tấn Phát lúc bấy giờ là kiến trúc sư ra trường đã lâu, có văn
phòng riêng, làm ăn phát đạt. Thế nhưng, chí hướng của người kiến trúc
sư trẻ ấy không vì mục đích làm giàu, nên văn phòng ấy chính là nơi lui
tới, hội họp sinh viên, trí thức yêu nước Sài Gòn. Trong Tổng hội Sinh
viên Đông Dương (AGEI) vào những năm 40, trước CMT8 – 1945, tên tuổi của
Huỳnh Tấn Phát nổi bật lên trong đám trí thức đàn anh. Tờ tuần báo Thanh niên
(1944) do ông làm chủ nhiệm trở thành cơ quan ngôn luận của giới trí
thức trẻ. Được kết nạp vào ĐCS tháng 3-1945, tham gia khởi nghĩa cướp
chính quyền ở Sài Gòn và được cử làm Phó giám đốc Sở Thông tin báo chí
của UBND Nam Bộ. Cũng từ đây, ông tạm giã từ chuyên môn, dấn thân vào
con đường hoạt động cách mạng chuyên nghiệp.
Khi quân Pháp chiếm lại Sài Gòn, ông bị
chúng bắt và bị kết án tù hai năm. Ra tù, ông tiếp tục hoạt động ở nội
thành đến năm 1949 mới ra chiến khu, và được cử làm ủy viên UBKCHC Nam
Bộ, rồi ủy viên UBKCHC đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn.
Sau hiệp định Genève 1954, ông được phân
công hoạt động ở nội thành. Đầu năm 1959, ra vùng giải phóng, được cử
làm ủy viên Khu ủy Sài Gòn – Gia Định, phụ trách công tác vận động trí
thức, tư sản và công tác Mặc trận. Cuối 1960, Đại hội MTDTGPMNVN cử làm
Phó chủ tịch, kiêm Tổng thư ký Ủy ban Trung ương MTDTGPMNVN. Tháng
6-1969, được Đại hội đại biểu quốc dân miền Nam bầu làm Chủ tịch Chính
phủ CMLTCHMNNVN.
Năm 1975, sau ngày giải phóng, đã giữ các chức vụ: Phó Thủ tướng
Chính phủ nước CHXHCHVN, rồi Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, Chủ tịch Ủy
ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đại biểu Quốc hội các khóa I,
II, III, VI, VII, VIII. Do công lao và thành tích đối với cách mạng,
ông đã được Nhà nước tặng Huân chương Hồ Chí Minh.
Trên đây là những nét lớn về tiểu sử cùng
những hoạt động cách mạng của ông. Nhưng điều đáng nói hơn không phải là
ở chỗ chức vụ, danh vọng, vị trí xã hội đã đạt được, mà là tấm lòng,
nhân cách, đức độ, tác phong sống của một người trí thức chân chính.
Người ta kính trọng ông, một kiến trúc sư, một trí thức lớn sẵn sàng vứt
bỏ mọi vinh hoa, phú quý của xã hội thượng lưu, lao vào cuộc chiến đấu
một mất một còn của nhân dân vì độc lập, tự do. Những người từng sống
gắn bó với ông từ cán bộ cấp cao đến người bảo vệ, liên lạc, yêu quý,
mến phục ông với cái tên thân thương Tám Chí. Nhà văn Thép Mới, trong
bài viết sau khi ông qua đời, có nhận xét: "Phong thái anh không lẫn
với ai khác được. Anh đã sống nhiều năm ở vùng Tam Giác Sắt không khác
gì các chiến sĩ, đồng bào. Lính trẻ Củ Chi chịu anh tình thương lính
tráng. Cô bác Phú Hòa Đông, Nhuận Đức quý anh như bạn, như người cao
tuổi trong gia đình. Ai cũng trọng anh, nhưng không ai coi anh là nhân
sĩ. Anh là người vận động cụ thể, tổ chức cụ thể, chăm lo thể hiện những
chủ trương cụ thể về công tác Mặt trận và vận động trí thức ở thành.
Anh đã là anh rồi, nên không nghĩ đến cá nhân nhiều… Cái cách anh quan
hệ, ứng xử với các bạn trí thức, đến với cách mạng cũng có những nét
riêng. Anh không hùng biện, không sắc cạnh, không bắt ai phục mình. Ánh
sáng là ánh sáng chung của cuộc đời. Tự anh không phát sáng. Nhưng anh
biết làm cho "than hồng nhen thành lửa ngọn". Anh thuyết phục họ bằng
chính con người anh, một con người Sài Gòn, lẽ ra có thể sống ít nhiều
vương giả lắm chứ, nếu muốn. Vậy mà, anh dấn thân vào trường kỳ kháng
chiến, dấn thân đến cùng, sống cách mạng một cách chân thật, tự nhiên,
trong trẻo". (Báo Nhân dân, số 14-10-1989). Còn
giáo sư Nguyễn Văn Chí, một trí thức lớn của Sài Gòn, đã từng sống với
anh ở khu, có nhận xét: "Huỳnh Tấn Phát sống ở rừng, làm cách mạng trông
vẫn thanh niên như hồi cắm trại ở suối Lồ Ồ".
Sinh năm 1913 trong một gia đình viên chức nhỏ ở xã Châu Hưng, huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre,
Huỳnh Tấn Phát học ở Sài Gòn, rồi Hà Nội. Nhưng, nơi ông gắn bó sâu sắc
và lâu dài nhất vẫn là thành phố Sài Gòn và vùng đất Nam Bộ. So với trí
thức và nghệ sĩ đã đến với cách mạng và kháng chiến, cống hiến tài năng
chuyên môn hay nghệ thuật, hoặc đánh giặc, Huỳnh Tấn Phát đã đóng góp
bằng cách riêng của mình.
Ông đã dành gần như trọn đời cho những hoạt động vận động quần chúng trực tiếp, làm công tác phong trào, từ khi chủ trương tờ Thanh niên
cho đến cuối đời, làm Chủ tịch đoàn Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam. Ông sống chân tình, cởi mở, bao dung, sẵn sàng chia sẻ, cảm
thông với những khó khăn, trăn trở của từng người, dù người đó là nhân
vật có tên tuổi, hay là người bảo vệ bình thường của cơ quan. Cho nên,
chẳng phải ngẫu nhiên mà Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ
quốc tặng ông Huy chương Vì sự nghiệp đại đoàn kết.